BK-Holdings - Mô hình doanh nghiệp lần đầu tiên được triển khai trong trường đại học

Tóm tắt

Thực hiện mục tiêu trở thành một đại học nghiên cứu trọng điểm quốc gia đạt trình độ khu vực và thế giới trong vài thập kỷ tới, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã đi tiên phong trong việc áp dụng mô hình hệ thống doanh nghiệp hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động chuyển giao công nghệ (CGCN) trong trường đại học.

   Thực hiện mục tiêu trở thành một đại học nghiên cứu trọng điểm quốc gia đạt trình độ khu vực và thế giới trong vài thập kỷ tới, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã đi tiên phong trong việc áp dụng mô hình hệ thống doanh nghiệp hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động chuyển giao công nghệ (CGCN) trong trường đại học.

PGS. Trần Văn Bình - Chủ tịch HĐTV BK-Holdings

   Hiện nay, các hoạt động CGCN từ các trường đại học ra bên ngoài xã hội chưa tương xứng với tiềm năng, năng lực của các trường đại học. Có một số nguyên nhân chủ yếu: Thứ nhất, mô hình tổ chức hoạt động CGCN ở các trường chưa tạo động lực để thu hút cán bộ tham gia, chưa có các tổ chức có đủ năng lực chuyên môn đồng hành cùng các nhà khoa học trong suốt quá trình CGCN từ khâu tạo giá trị, tìm kiếm thị trường cho đến triển khai vào thực tế. Thứ hai, rất ít cá nhân/đơn vị trong trường có ý thức, chủ động trong việc đăng ký giải pháp hữu ích và xác lập quyền sở hữu đối với các sản phẩm trí tuệ mà mình tạo ra. Dẫn đến các xung đột lợi ích giữa nhà trường, các nhà khoa học và các đối tác trong quá trình chuyển giao. Các sản phẩm khoa học - công nghệ vì thế không thể khai thác một cách bền vững và có hiệu quả. Thứ ba, mô hình tổ chức thiếu sự minh bạch trong việc sử dụng các tài sản công trong quá trình thực hiện các hợp đồng CGCN, điều này đã đưa nhà trường vào thế khó giải trình khi có sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước.
Ban Giám hiệu Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã nhìn thấy các hạn chế trên và quán triệt quan điểm, để thúc đẩy hoạt động CGCN trong Nhà trường, rất cần có một hệ thống doanh nghiệp và dịch vụ KH&CN hoạt động hiệu quả.
Xin ông chia sẻ về quá trình hình thành của hệ thống doanh nghiệp hiện đang áp dụng tại Trường. Hệ thống này có điểm gì khác so với các doanh nghiệp ở các trường đại học khác, thưa ông?
Sau một quá trình dài tìm hiểu kinh nghiệm của các nước có nền đại học tiên tiến về các mô hình CGCN hoạt động có hiệu quả, tháng 7.2007, Lãnh đạo Trường đã ra quyết định thành lập một bộ phận tập trung nghiên cứu về việc cải tổ hệ thống doanh nghiệp. Năm 2008, một hệ thống doanh nghiệp theo mô hình mới đã chính thức được triển khai áp dụng tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.

Hình 1: Mối quan hệ giữa các đơn vị trong hệ thống Trường Đại học Bách khoa Hà Nội


   Hệ thống doanh nghiệp của Trường có 2 điểm khác cơ bản nhất so với mô hình các trường đại học khác đang áp dụng: Một là, tách hoạt động CGCN và sản xuất kinh doanh ra khỏi sự điều hành tuần tuý hành chính của một cơ sở đào tạo và KH&CN công lập; Hai là, minh bạch hoá việc đưa tài sản của Nhà trường vào quá trình sản xuất kinh doanh, cố gắng tạo cơ chế để nhà khoa học trong trường đóng góp vào việc thành lập các công ty. Trước hết, Trường đã mạnh dạn giải thể công ty cũ (Công ty Bách khoa), thành lập Công ty BK-Holdings (quản lý vốn và tài sản Trường chuyển sang) và tiếp theo là hình thành các công ty cổ phần cùng các hệ thống dịch vụ KH&CN hỗ trợ, dần từng bước hình thành hệ thống doanh nghiệp theo mô hình tập đoàn. Hiện nay, BK-Holdings có 2 công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, 4 công ty cổ phần và 1 trường cao đẳng nghề. Mô hình này của Trường đã hoạt động ổn định, kết quả cho thấy đã mang lại nguồn thu tăng hàng năm, đóng góp xây dựng cho sự phát triển đi lên của Nhà trường và bước đầu tạo được động lực cho các nhà khoa học và các tập thể nghiên cứu thuộc Nhà trường.
   Có thể khẳng định, hệ thống doanh nghiệp mới này tuy không mới so với thế giới nhưng lần đầu tiên được áp dụng tại một trường đại học ở nước ta, đã giải quyết được các “khúc mắc” căn bản so với mô hình cũ và đảm bảo được sự mạch lạc, rõ ràng về mặt tổ chức. Với các loại hình doanh nghiệp khác nhau trong nhà trường nhưng có mối quan hệ rất rành mạch với toàn hệ thống và một điểm quan trọng là đã huy động được sự đóng góp với tinh thần trách nhiệm cao từ phía cá nhân các nhà khoa học.
   Vậy cơ chế nào để gắn kết và tạo động lực thúc đẩy sự gắn kết giữa các tập thể khoa học và cá nhân nhà nghiên cứu với hoạt động CGCN, thưa ông?
   BK-Holdings với vai trò hỗ trợ dịch vụ và thực hiện CGCN sẽ trợ giúp, tư vấn các nhà khoa học, các tập thể có công nghệ thực hiện chuyển giao một cách chuyên nghiệp thực hiện đúng theo Luật Doanh nghiệp. Khi có một công nghệ cần chuyển giao (hoặc có thể triển khai ươm tạo), với chức năng đã được quy định, BK-Holdings sẽ hỗ trợ việc thành lập doanh nghiệp có gắn với cổ phần đóng góp của nhà khoa học. Với cách triển khai như vậy, khi đi vào hoạt động các doanh nghiệp này sẽ tạo được các sản phẩm, thiết bị có hàm lượng KH&CN cao nhất mang dấu ấn của nhà khoa học thuộc Trường để chuyển giao ra bên ngoài.
   Xin ông nói rõ hơn về mối quan hệ giữa vốn đầu tư, tài sản giữa Nhà trường và BK-Holdings? Các doanh nghiệp trực thuộc hệ thống doanh nghiệp này được thành lập như thế nào?
    Ban quản lý công sản (Hiệu trưởng là Chủ tịch) thực hiện nhiệm vụ theo dõi tài sản (gồm tài sản hữu hình và tài sản vô hình như: Cơ sở vật chất, công nghệ và thương hiệu của Trường…) và dòng vốn từ Trường chuyển sang BK-Holdings và ngược lại. BK-Holdings với nhiệm vụ “đứng mũi chịu sào” trong hoạt động CGCN, tức là nắm “đầu vào” và “đầu ra” của công nghệ và quan hệ với các đối tác, đồng thời cũng chịu sự giám sát của Hiệu trưởng Nhà trường với yêu cầu hoạt động phải có hiệu quả.
    Với vai trò là một công ty nắm giữ vốn của Nhà trường, trong trường hợp xét thấy một công nghệ có thể chuyển giao, Công ty BK-Holdings đề nghị các đơn vị có liên quan lập đề án thuyết minh trình lên Ban quản lý công sản của Trường và sau đó, Chủ tịch Ban này sẽ chuyển Đề án đến Lãnh đạo nhà trường (gồm Công đoàn, Đảng ủy và Ban giám hiệu) xem xét quyết định. Sau khi cân nhắc và đi đến quyết định sẽ đầu tư, các thủ tục thành lập doanh nghiệp mới được tiến hành.
   Ở một dạng khác, một viện nghiên cứu của Trường xét thấy có nhu cầu thành lập doanh nghiệp (công ty cổ phần) để thương mại hoá các sản phẩm KH-CN của mình sẽ lập đề án và với sự hỗ trợ, tư vấn của BK-Holdings, viện hoàn thiện đề án. Sau đó, đề án được chuyển qua Chủ tịch Hội đồng công sản, tiếp đến là thuyết minh trước toàn thể ban lãnh đạo Trường (gồm Công đoàn, Đảng ủy và Ban giám hiệu) để thông qua. Với mô hình cổ phần (trong đó, cổ phần của Nhà trường do BK-Holdings nắm giữ, cổ phần của viện gồm cổ phần của viện và của các cán bộ, nhân viên trong viện và của các đối tác bên ngoài) sẽ giúp gắn quyền lợi của các bên vào hoạt động CGCN, làm cho hoạt động của doanh nghiệp mạnh mẽ, đóng góp cho Nhà trường để đầu tư cho phát triển và tăng thêm giá trị tài sản mà cá nhân nhà khoa học tham gia đóng góp.
   Còn về nhân lực, Nhà trường và doanh nghiệp giải quyết vấn đề này ra sao, thưa ông?
   Về nguyên tắc, đây là một mô hình mở, BK-Holdings là doanh nghiệp 100% vốn của Trường nên Hội đồng thành viên là do Trường bổ nhiệm. BK-Holdings cử đại diện tham gia Hội đồng thành viên (HĐTV) hoặc Hội đồng quản trị (HĐQT) các đơn vị trực thuộc hệ thống của mình. Bộ máy điều hành các đơn vị do HĐTV hoặc HĐQT của họ tự quyết định. Họ có thể là cán bộ đang công tác tại Trường, nhưng cũng có thể là những người có năng lực từ bên ngoài. Trong trường hợp là cán bộ của Trường được bổ nhiệm vào các vị trí quản lý chủ chốt của các doanh nghiệp (Giám đốc và Phó Giám đốc các công ty) thì Nhà trường có quyết định điều động biệt phái trong khoảng thời gian tối đa là 5 năm. Biên chế của cán bộ vẫn thuộc Nhà trường nhưng lương và thu nhập của họ thì do doanh nghiệp trả. Trong thời hạn biệt phái, cán bộ có thể rời vị trí quản lý của doanh nghiệp và quay lại Trường. Sau thời hạn trên, cán bộ biệt phái muốn tiếp tục làm việc tại doanh nghiệp thì phải chuyển hẳn sang đó. Các doanh nghiệp thuộc hệ thống BK-Holdings có thể sử dụng nguồn nhân lực triển khai các hợp đồng CGCN là các cán bộ và sinh viên của Nhà trường dưới dạng các hợp đồng thuê khoán chuyên môn, hợp đồng tư vấn, hợp đồng giảng dạy. Đây là định hướng ưu tiên của toàn hệ thống để tạo điều kiện gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và CGCN tăng thêm nguồn thu nhập cho cán bộ và sinh viên.
   Từ mô hình lần đầu tiên được áp dụng trong trường đại học ở Việt Nam này, ông có điều gì muốn khuyến cáo khi các trường đại học khác áp dụng mô hình này?
   Đúng vậy, mô hình này lần đầu tiên được triển khai trong trường đại học ở nước ta. Tuy nó đã đóng góp tăng nguồn thu cho Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đảm bảo theo đúng khuôn khổ luật pháp, hỗ trợ cho nhà nghiên cứu trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến thị trường, thủ tục CGCN nhưng quá trình triển khai đã gặp không ít khó khăn, cần phải quan tâm giải quyết.
   Thứ nhất, bản thân các trường đại học, trong đó có Trường Đại học Bách khoa Hà Nội chưa được tự chủ hoàn toàn, do vậy, vốn của Nhà trường dành cho hoạt động đầu tư còn rất hạn chế. Tiền thu được từ chuyển giao và nguồn vốn còn hạn hẹp trong khi luôn cần nhiều hơn để tiếp tục đầu tư; thậm chí đối với việc quản lý, sử dụng các tài sản công như các máy móc, thiết bị cũng còn nhiều bất cập (các tài sản máy móc, thiết bị này không thể chuyển sang cho doanh nghiệp sử dụng trong khi hầu như số máy móc, thiết bị này có tần suất sử dụng là thấp và rất cần cho hệ thống doanh nghiệp, chưa kể hầu hết số các máy móc, thiết bị này đều xuống cấp qua thời gian mà chưa có kinh phí để duy tu, bảo dưỡng…).
   Thứ hai, sau khi được trao quyền tự chủ thì Lãnh đạo các trường phải đổi mới sâu sắc trong tư duy quản lý, bớt can thiệp hành chính và tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của hệ thống doanh nghiệp mới này. Cần tạo cơ chế để thu hút các nguồn lực của xã hội tham gia đầu tư vào hệ thống doanh nghiệp của Nhà trường.
   Thứ ba, về phía các nhà khoa học là những người tạo ra công nghệ cần nắm được giá trị thực sự của tài sản trí tuệ của mình để xử lý đúng trong chuyển giao (và nhìn thấy sự hạn chế nếu trực tiếp tham gia CGCN), tiến tới phối hợp với hệ thống doanh nghiệp của Nhà trường tuân theo phương thức CGCN chuyên nghiệp (là đảm bảo đúng Luật Doanh nghiệp và mang lại hiệu quả cao).
   Mong rằng, với sự quan tâm tạo điều kiện về cơ chế, chính sách của Chính phủ, các bộ, ngành có liên quan, cùng sự đồng thuận trong nhận thức và hành động của cả 3 phía: Nhà quản lý, nhà doanh nghiệp và nhà nghiên cứu, hệ thống doanh nghiệp trong Trường Đại học Bách khoa Hà Nội sẽ hoạt động hiệu quả hơn trong thời gian tới, đáp ứng được sự mong mỏi của toàn xã hội cũng như tương xứng với tiềm năng của mình.
   Xin cảm ơn ông.

Thực hiện: CTH

 

Đóng